Trích sách "Nước Nam một thuở": Đừng tẩy chay Tết!

Viên Minh

(Dân trí) - "Trong ba ngày Tết, mọi người hoan hỉ, phấn khởi, gác lại những lo lắng muộn phiền, những mối hận thù cá nhân; tĩnh tâm tưởng nhớ tổ tiên, để các linh hồn hộ mệnh trở về giữa những người đang sống".

Nước Nam một thuở tập hợp 38 công trình nghiên cứu, bài viết tiêu biểu bằng tiếng Pháp và 60 tranh ảnh phong phú về đất nước, con người An Nam, do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tuyển dịch sang tiếng Việt.

Cuốn sách thuộc Tủ sách Lịch sử - Văn hóa, nằm trong dự án hợp tác giữa Omega Plus và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I. 

Ngày đầu năm mới của người An Nam 

(Nguyễn Văn Vĩnh, năm Nhân Thân, 1932)

Bất chấp mọi lý do buộc người An Nam phải tính ngày theo lịch Grê-goa (lịch dương) và bất chấp các sắc lệnh mà Chính phủ Trung Hoa Dân quốc mới ban hành, người Trung Hoa và người An Nam vẫn sử dụng lịch âm trong đời sống riêng tư của họ, trong quan hệ buôn bán và, tại xứ An Nam của chúng ta, trong hầu hết các văn bản chính thống. 

Bất chấp những cấm đoán nghiêm khắc nhất, người Hoa vẫn tổ chức lễ hội theo lịch âm, đặc biệt là ngày đầu năm mới - một ngày lễ lớn đối với họ và đối với người An Nam, đó là ngày lễ đầy chất thơ và mang tính truyền thống.

Trích sách Nước Nam một thuở: Đừng tẩy chay Tết! - 1

Bìa sách "Nước Nam một thuở" (Ảnh: Omega Plus).

Trong ba ngày lễ đó, mọi người hoan hỉ, phấn khởi, gác lại những lo lắng muộn phiền, những mối hận thù cá nhân.

Ba ngày tĩnh tâm để tưởng nhớ về tổ tiên, để các linh hồn hộ mệnh của họ trở về giữa những người đang sống.

Ba ngày để tỏ ra mình là người giàu có, hạnh phúc, mọi người chỉ xem các chương trình vui nhộn và nghĩ đến những điều hạnh phúc, ăn uống no say, thưởng thức những món ngon phù hợp với túi tiền của mình, khoác lên mình những bộ quần áo đẹp nhất, nói những điều dễ nghe nhất, trao gửi những điều ước, những lời chúc tốt đẹp nhất.

Đó là một sự nghỉ ngơi, một quyết định đình chiến, chấm dứt mọi cuộc ganh đua, một giấc mơ hạnh phúc lớn lao mà cả dân tộc hướng tới sau một năm đau khổ và thất bại.

Tôi xin đảm bảo với các bạn rằng tôi yêu Tết như một đứa trẻ. Vì tôi thấy ở đó con người sống nhân văn hơn, tốt hơn với đồng loại, hài lòng với chính mình, với mọi thứ và với mọi người.

Tôi đặc biệt thích Tết bởi vì phụ nữ làm cho mình đẹp hơn và để cho mọi người cùng chiêm ngưỡng.

Tôi còn thích Tết hơn nữa là bởi những ngày này người An Nam lại rất yêu hoa, họ vốn là những người dân nghèo quanh năm không có thời gian để ngắm nhìn những gì đẹp đẽ của thiên nhiên, thậm chí, lướt qua một bông hồng đẹp mà cũng chẳng buồn nhìn ngắm.

Trích sách Nước Nam một thuở: Đừng tẩy chay Tết! - 2

Hoa đào trên phố vào dịp Tết, ảnh chụp năm 1929 (Nguồn: Bảo tàng Quai Branly).

Vào những ngày này, tất cả mọi người bỗng trở thành thi sĩ và nghệ sĩ, ngay cả trong việc bài trí nhà cửa. Căn nhà tồi tàn nhất cũng trở thành một cung điện nhỏ, và người bán trà trở thành bà chủ vui tính, đặt chiếc chiếu đẹp nhất lên chiếc giường tre để mời bạn ngồi. Ngay cả căn lều của người tiều phu cũng được trang hoàng, mang lại một dáng vẻ chỉnh tề cho những thứ tồi tàn ngày thường. 

Có nhiều bàn thờ gia tiên như những bài thơ. Không cứ phải bày đầy lễ vật. Một cái bàn đơn giản phủ tấm khăn sẵn có trong nhà, kê sát tường, trải thêm giấy đỏ; trên bàn người ta thành kính bày đồ cúng, tất cả được thắp sáng bằng một ngọn đèn nhỏ và tỏa hương thơm ngào ngạt. 

Nhưng tại sao tất cả những điều này không được thực hiện vào ngày mồng một của năm dương lịch?

Đó là vì năm dương lịch bắt đầu gần sát ngày Đông chí (chỉ sau 10 ngày) và các loài hoa tại xứ sở của chúng ta còn chưa nở. Những cây mận, đào, mơ mà chúng ta trồng để lấy hoa, chỉ nở vào đầu mùa xuân (ngày mồng 5 tháng 2 theo lịch dương).

Những loài hoa quý hiếm đến với chúng ta từ phương Bắc chỉ có thể vượt biển vào tiết tiểu hàn (rét nhẹ, ngày mồng 6 tháng 1) và đại hàn (rét đậm, ngày 21 tháng 1).

Đó là trường hợp của hoa thủy tiên và hoa mẫu đơn - hai loài được người Hoa gọi là "nữ hoàng của các loài hoa" mà tôi không biết tên bằng tiếng Pháp. Vì vậy, Tết của chúng ta thường rơi sớm nhất là vào ngày 22 tháng 1 và muộn nhất là ngày 22 tháng 2 theo lịch của người Âu. 

Thời tiết trong những ngày Tết cũng rất đặc biệt, cho dù trời nóng và khô hoặc lạnh và mưa. Nồm (thời tiết nóng) của Tết là một hiện tượng tự nhiên khiến hoa nở sớm và chóng tàn. Nó không giống như hiện tượng nồm vào các tháng 11 và 12.

Tương tự như vậy, cơn mưa phùn này khiến người ta luôn nghĩ đến việc về nhà khi ra ngoài, đó là cơn mưa phùn vào dịp Tết mà mọi người dễ dàng bỏ qua cho dù có bị ngấm nước.

Thời tiết này thích hợp với các trò (chơi) kéo dài nhiều giờ trong gia đình, và đôi khi kết thúc bằng một bữa tối nóng sốt, ở đó mỗi vị khách tự nhúng thịt sống, cá, tôm, salad và các loại rau vào một nồi nước dùng lớn, sôi sùng sục để trên chiếc lò ở giữa bàn (ăn giúng). 

Một lý do nữa khiến người dân không thể tổ chức Tết vào ngày 1 tháng 11 là vì Tết trùng với thời gian nghỉ ngơi sau khi cấy vụ chiêm ở vùng đồng bằng ngập nước (ruộng chiêm) kết thúc.

Vào thời điểm đó, người dân vùng cao sẽ bán hết số dư còn lại của vụ thu hoạch tháng 10 và trở nên rảnh rỗi. Do vậy, đây là thời điểm thích hợp để vui chơi và thưởng thức những gì mà người ta kiếm được trong năm.

Các khoản chi vào dịp lễ hội này đã được dự trù và cũng thể hiện mùa màng năm đó có bội thu hay không. Nếu vụ mùa thuận lợi người nông dân dùng khoản dư thừa của mình còn nếu vụ mùa thất bát, hoặc lúa không bán được như năm nay, thì những người buôn bán nghèo không có gì để bán và khó mà trả được nợ. 

Vì vậy, đừng có tẩy chay Tết. 

Khi cây lúa phát triển tốt và bán được giá, nó sẽ nuôi sống tất cả mọi người. Đúng là những người tạo ra nguồn của cải này nên hưởng lợi từ nó và để các ngành nghề khác cùng hưởng lợi. 

(Nguồn: Tuần san Indochine, số 177, ngày 20 tháng 1 năm 1944)

(Còn tiếp)