1. Dòng sự kiện:
  2. Nổ xưởng gỗ ở Đồng Nai
  3. Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV
  4. TPHCM vào mùa mưa

Lũ dữ là “sản phẩm” của chúng ta!

Bão, lũ đã trở nên hung hãn hơn do con người “không biết điều” với nó. Dưới góc độ khoa học, ông Nguyễn Ngọc Sinh, chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, nói rõ hơn những hành vi “chọc giận” đó của con người.

Dù đã nỗ lực phòng chống nhưng mất mát bởi cơn bão Lekima là rất lớn. Theo ông, nguyên nhân lớn nhất là gì?

 

Cơn lũ vừa qua lượng mưa không quá lớn nhưng nước về các sông lại cao bất thường. Tình hình đó lại diễn ra trên diện rộng và có nhiều diễn biến không mang tính qui luật như trước. Đây là nguyên nhân lớn nhất của thiệt hại, là một xu hướng đáng ngại và khá rõ nét của toàn cầu cũng như ở VN. Đó là sự xáo trộn qui luật tự nhiên, kể cả qui luật thiên tai cũng có thay đổi. Sự thay đổi này là kết cục của những biến động kéo dài ở từng thành phần môi trường như địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng... cộng hưởng sự phát tác đó và gây tai họa.

 

Khoa học đã chia lịch sử “quan hệ” của con người với tự nhiên làm ba giai đoạn. Thứ nhất là thời con người bị thiên nhiên thôn tính, phải tìm mọi cách để chống chọi, tồn tại. Đó là thuở sơ khai của lịch sử. Thời kỳ thứ hai, khi con người tăng dần sức mạnh từ công cụ lao động và đã vùng lên chinh phục thiên nhiên. Đó là ngăn sông, đắp đập, lấp biển, tìm châu lục mới... Con người tự hào với sức mạnh của mình. Lúc đó sức mạnh con người đã so sánh được với sức mạnh thiên nhiên. Chúng ta đã chế ngự và “đè” nó xuống như một cái lò xo. Nay là giai đoạn thứ ba, con người đã làm biến dạng sơ đồ qui luật tự nhiên bởi hiệu ứng nhà kính, phá rừng, ngăn sông, lấn biển... Và cái lò xo bật lên, thiên nhiên đã nổi giận bằng chính những vết thương của nó.

 

Các nhà khoa học không quá lo xa khi nói rằng con người có thể lâm vào tình trạng không thể “chuộc lỗi” được với thiên nhiên. Các vấn đề nước biển dâng cao, băng tan, nhiệt độ nóng, ô nhiễm khí thải đã gần chạm vào giới hạn cuối cùng. Tàn phá thì chỉ mất vài năm, vài tháng nhưng để phục hồi thì phải nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ.

 

Thưa ông, ở VN điều gì đã tác động đến những thành phần môi trường đó?

 

Đầu tiên là rừng đầu nguồn đã không còn đủ sức thực hiện hai nhiệm vụ tối quan trọng trong chống lũ là ngấm nước và cản nước. Tiếp theo, chúng ta có nhiều đê, đập và các công trình xây dựng xâm lấn, tác động cả chủ ý và vô ý vào dòng chảy.

 

Chưa có một tính toán khoa học tổng thể nên hiệu quả trị thủy của những công trình này có thể đạt ở khu vực, địa phương nào đó nhưng lại phản tác dụng trong bức tranh tổng thể.

 

Tình trạng khai thác cát sỏi, tác động bồi lắng... lòng sông nhiều năm, nhiều nơi cũng làm tổn thương đường thoát lũ mà bản thân thiên nhiên đã tự điều hòa. Tại các cửa sông chảy ra biển cũng bị biến dạng nhiều bởi các công trình đô thị hóa, lấn biển... Nước ở trên tràn nhiều hơn nhưng dòng chảy chậm hơn, cửa thoát khó hơn dẫn đến ngập lụt và bục phá.

 

Thưa ông, thời tiết có tính toàn cầu, nước ta có nhiều dòng sông lớn bắt nguồn từ các quốc gia khác, điều đó có tác động đến công tác phòng chống thiên tai và khai thác thủy năng?

 

Thông lệ quốc tế thì dòng sông lớn chảy qua nhiều quốc gia sẽ có những sự hợp tác cấp quốc gia để khai thác và quản lý nó. Sông Mekong đã có ủy ban quốc tế dành riêng cho việc này và hiện có sáu nước tham gia. Riêng Trung Quốc đang tham gia ở cấp tỉnh. Sông Hồng của chúng ta chỉ có 50% lượng nước lấy từ lưu vực bản địa, 50% còn lại từ nước ngoài. Hai nước đã có những hội nghị bàn thảo về nó. Về lâu dài, nên có những hợp tác sâu và chặt chẽ hơn.

 

Có cần thiết một cơ quan chuyên trách theo dõi, đánh giá biến động tự nhiên và thiên tai không, thưa ông?

 

Hiện nay ở VN chưa có một chiến lược tổng thể về công tác phòng chống thiên tai có chiều sâu, hay nói rộng hơn là nghiên cứu về biến động tự nhiên. VN là một trong mười quốc gia chịu tác động lớn nhất về hiện tượng nước biển dâng cao. Trong 16 loại thiên tai của hành tinh thì chúng ta có nguy cơ gặp 2/3 số đó. Riêng về bão lũ, nước ta cũng là một cái rốn gió và nước của khu vực. Cộng với sự biến động tự nhiên toàn cầu rất đáng lo ngại thì hơn bao giờ hết, VN phải tham gia cuộc cứu vớt môi trường, cứu chính sự sống của mình.

 

Thưa ông, ở VN cơ quan nào chịu trách nhiệm nghiên cứu, phân tích và khuyến cáo, “chăm sóc” về những biến động của tự nhiên, môi trường và đặc biệt là thiên tai?

 

Về môi trường chúng ta có Bộ Tài nguyên - môi trường. Về thiên tai chúng ta có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm như: Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn, Ủy ban phòng chống lụt bão, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn... Tuy nhiên, theo tôi, các cơ quan này chủ yếu xử lý những vấn đề cứu hộ, cứu nạn, phòng chống trước mắt để hạn chế thiệt hại.

 

Ở cấp vĩ mô, chúng ta đã làm gì trước tình trạng này?

 

Liên Hiệp Quốc đã lấy mười năm cuối cùng của thế kỷ 20 làm thập niên “giảm nhẹ thiên tai”. Nhiều quốc gia đã xây dựng chương trình hành động toàn quốc về ứng xử với nước biển dâng cao, băng tan hay sóng thần, núi lửa... Chúng ta từng có dự định lập chương trình quốc gia về vấn đề này nhưng sau lại được “gọt” nhỏ lại thành chương trình riêng chống bão lũ. Bão lũ thuộc trách nhiệm của ngành nông nghiệp nên cuối cùng nó lại về bộ này. Cần tránh tư tưởng nghe những nguy cơ tiềm ẩn thì thấy quá xa, nghe những mất mát trước mắt thì cứu trợ tức thời rồi quên mất trách nhiệm phải làm gì để những cơn lũ, trận bão sau không gây thiệt hại lớn hơn...

 

Theo ông, VN có thể làm gì trước sự giận dữ của thiên nhiên?

 

Chúng ta cần có một tư duy khoa học nghiêm túc và đầy đủ về thiên tai, môi trường. Từ đó xây dựng một chương trình quốc gia, một chiến lược tổng thể để đối phó. Còn tất cả biện pháp đơn lẻ thì ai cũng biết như trồng rừng, giảm thiểu khí thải, quản lý khai thác khoáng sản... Vấn đề là phải làm thế nào cho tốt mà thôi.

 

Theo Quang Thiện

Tuổi Trẻ

Dòng sự kiện: Bão số 5 - 10/2007