Thái Nguyên:

Vụ thi hành án kiểu "khấu nợ": cá nhân mắc nợ, thu tài sản của cả gia đình?

(Dân trí) - Không chỉ chế thi hành án bằng cách khấu trừ tiền của cả một công ty vào nghĩa vụ trả nợ của riêng một cổ đông, Chi cục THADS TX Sông Công còn tự ý xử lý tài sản chung của toàn thể gia đình gồm 6 con người để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho một cá nhân.

Theo hồ sơ vụ án, để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ của cá nhân ông Nguyễn Văn Thiệp đối với khoản nợ gốc và lãi là: 1.022.125.000đ (Một tỷ không trăm hai mươi hai triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng), ngày 30/11/2011, Chi cục THADS thị xã Sông Công đã ra Quyết định THA số 83/QĐ-THA ɶà ngày 13/03/2012 đã tiến hành kê biên toàn bộ khối tài sản chung của gia đình ông Thiệp. Tuy nhiên, trong quá trình kê biên tài sản, Chi cục THADS thị xã Sông Công đã không thông báo cho các con của ông Thiệp được biết về việc kê biên tài sản ngày 13/03/2012.

Không đồng ý với việc làm vi phạm pháɰ luật nghiêm trọng này, ngày 26/09/2013, các thành viên trong gia đình ông Thiệp đã làm đơn khiếu nại gửi Chi cục THADS thị xã Sông Công với nội dunɧ: “Trong quá trình kê biên tài sản, cơ quan THADS thị xã Sông Công không thông báo đến những người có quyền lợi liên quan về vɩệc kê biên tài sản của gia đình. Khối tài sản mà cơ quan THA kê biên có kỷ phần của các thành viên khác trong gia đình. Việc kêȠbiên không thông báo và có ý kiến của các thành viên làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Đề nghị Cɨi cục THADS thị xã Sông Công hủy bỏ việc bán đấu giá tài sản ngày 02/10/2013 tại Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Thái Nguyên để xem xét quyền lợi của những người này theo quy định của pháp luật”.

Các giấy tờ chứng minh khối tài sản bị thi hành án là sở hữu chung của của gia đình ông Thiệp.Ȣ></div><div style=
Các giấy tờ chứɮg minh khối tài sản bị thi hành án là sở hữu chung của của gia đình ông Thiệp.
Các giấy tờ chứng minh khối tài sản bị thi hành án là sở hữu chung của của gia đình ông Thiệp.
Các giấy tờ chứng minh khối tài sản bị thi hành án là sở hữu chung của của gia đình ông Thiệp.

Thế nhưng, Chi cục THADS thị xã Sông Công đã không tạm dừng việc THA và đến ngày 02/10/2013, Trɵng tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Thái Nguyên vẫn tiếp tục tổ chức bán đấu giá khối tài sản chung của gia đình ông Thiệp.

Luật sư Trương Quốc Hòe - Trưởng VPLS Interla (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) khẳng định: Cɨi cục THADS thị xã Sông Công đã có rất nhiều sai phạm trong quá trình tổ chức cưỡng chế THA, đặc biệt trong việc xác định các chủ sở hữu chung ɴài sản của hộ gia đình ông Nguyễn Văn Thiệp.

Luật sư Trương Quốc Hòe khẳng định: “Cơ quan thi hành án đã tự ý xử lý tài sản chung của toàn thể gia đình gồm sáu con người ȑể đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho một cá nhân là một việc làm vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”.

Theo hồ sơ, tài liệu thì những tài sản sau đã bị Chi cục THADS thị xã Sông Công tiến hành kê biên, bán đấu giá:

1. Quyền sử dụng thửa đất số 269 tờ bản đồ 48 – IV, tại Tổ dân phố 07, phường Thắng Lợi, thị xã Sông Công (diện tích: 80m2 theo GCNQSDĐ số P - 513447 do UBND tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 26/01/1999, cấp cho hộ gia đ<ȯi>ình ông Nguyễn Văn Thiệp) và tài sản gắn liền với đất là 01 (một) nhà 03 (ba) tầng (được cấp giấy phép xây dựng số 1064/GPXD ngày 19/10/2011).

2. Quyền sử dụng thửa đất số 268 tờ bản đồ 48-IV, tại Tổ dân phố 07, phường Tɨắng Lợi, thị xã Sông Công (diện tích: 80 m2  theo GCNQSDĐ số T-746650 do UBND tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 31/-7/2001, cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Thiệp) và tài sản gắn liền với đất là 01 (một) nhà 02 (hai) tầng (được cấp giấy phép xây dựng số 134/GPXD cấp lại ngày 29/5/2007);

Cùng toàn bộ công trình phụ trên 02 (hai) thửa đất nêu trên.

Những tài sản này thuộc sở hữu chung của hộ gia đình ông Nguyễn Văn Thiệp. Đây là tàɩ sản của hộ gia đình được ghi nhận trên tất cả các giấy tờ nhà đất như: Giấy CNQSDĐ ngày 26/1/1999 (thửa đất số 269); Quyết định giao đất và cấp giấy chứng nhận QSDĐ số 299/QĐ-UB ngày 26/01/1999; Giấy phép xây dựng số 1064/GPXD ngày 19/10/2011; Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên số 2949/QĐ-UB ngày 31/7/2001 về việc phê duyệt và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 268; Giấy CNQSDĐ ngày 31/7/2001 (thửa đất số 268); Giấy phép xây dựng cấp lại số 134 ngày 29/5/2007 của UBND thị xã Sông Công (cấp ɣho thửa 268); Đơn xin phép xây dựng và nâng cấp nhà ngày 20/5/2007.

Thế nhưng, trong các Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCTHA ngày 23/10/2013, Công văn xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ số 356/CV-CCTHA ngày 11/10/2013, Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐGQKN-THA ngày 06/08/20ȱ2, Công văn xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ số 242/CV-CCTHA ngày 28/7/2014 của Chi cục THADS thị xã Sông Công lại xác định khối tài sản trên chỉ là tài ɳản chung của vợ chồng ông Thiệp, chứ không phải là tài sản chung của vợ chồng ông Thiệp và các con, việc này đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác trong hộ gia đình ông Thiệp.

Tổng Cục thi hành án dân sự kết luận sai phạm của Chi cục thi hành án dân sự TX Sông Công.
Tổng Cục thi hành án dân sự kết luận sai phạm của Chi cục thi hành án dân sự TX Sông Công.

Tổng Cục thiȠhành án dân sự kết luận sai phạm của Chi cục thi hành án dân sự TX Sông Công.

Đối với thửa đất số 269, Chi cục THADS thị xã Sông Công nhận định: nguồn gốc của thửa đất số 269 là ông Thiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, có trong thời kì hôn nhân với bà Nguyễn Thị Lý nên là tài sản chung của vợ chồng. Điều này là rất phiến diện, thiếu cɨính xác, bởi lẽ nguồn gốc thửa đất này là toàn bộ các thành viên trong gia đình ông Thiệp được bố mẹ ông là ông Nguyễn Văn Giao (mất năm 2007) và bà Trần Thị Hường (74 tuổi, trú quán: tổ 16-thị trấn Thanh Lãng-huyện Bình Xuyên-tỉnh Vĩnh Phúc) cho số tiền 55.000.000 đồng (năm mươi lăm triệu đồng) để mua đất, xây nhà và làm ăn (việc này đã được UBND thị trấn ɔhanh Lãng-huyện Bình Xuyên-tỉnh Vĩnh Phúc xác nhận trong đơn đề nghị của mẹ ông Thiệp).

Sau đó ông Thiệp dùng số tiền trên mua lại thửa đất số 269 của Nhà nước theo hình thức giao đất có thu tiền. Nếu khi xem xéɴ đánh giá, giả sử Cơ quan THADS không xác định tài sảnȠtrên thuộc sở hữu chung của tất cả thành viên gia đình ông Thiệp (với nguồn gốc hình thành từ khoản tiền được ȼ/span>tặng cho) thì lẽ ra việc xác định những ngườɩ có quyền đối với thửa đất cấp cho hộ gia đình cũng phải được căn cứ vào sổ hộ khẩu. Theo đó, những người có tên trong sổ hộ khẩu tại thời điểm thửa đất số 269 được cấp giấy chứng nhận sẽ đồng thời là những chủ sở hữu chung đối vớiȠtài sản. Cụ thể tại thời điểm được cấp GCNQSDĐ này, trong sổ hộ khẩu của gia đình ông Thiệp có 4 thành viên là ông Nguyễn Văn Thiệp, bà Nguyễn Thị Lý, anh Nguyễn Văn Điệp và chị Nguyễn Thị Oanh. Những người này đương nhiên sẽ là các đồng chủ sở hữu đối với tài sản là quyền sử dụng thửa đất số 269.

Đối với thửa đất số 268, đây là thửa đất hộ gia đình ông Thiệp nhận chuyển nhượng của ông Vũ Xuân Khuê được xác nhận bởi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 24/07/2001. Sau đó, ông Thiệp đã làm hồ sơ xin cấp giấy CNQSDĐình ông. Ngày 31/7/2001, UBND tỉnh Thái Nguyên đã có Quyết định số 2949ȯQĐ-UB phê duyệt và cấp giấy CNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn Thiệp. Chi cục THADS thị xã Sông Công nhận định rằng đây là tˠi sản hình thành trong thời kì hôn nhân, chỉ thuộc sở hữu của hai vợ chồng ông Thiệp. Tuy nhiên, điều này cũng là không ȑúng. Bởi lẽ, theo Điều 108 bộ luật dân sự 2005 quy định: Điều 108. Tài sản chung của hộ gia đình

Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ.

Theo quy định này tài sản chung của hộ gia đ Điều này đã được khẳng định thông qua các giấy tờ nhà đất ông Thiệp đứng tên đại diện đều xin cấp cho hộ gia đình ông, thể hiện ˽ chí của cá nhân ông đồng thời là ý chí cả tất cả các thành viên khác đều muốn đây là tài sản của hộ gia đình.

Chi cục THADS thị xã Sông Công nhận định mẫu giấy CNQSDĐ ghi hộ gia đình là do: đây là mẫu chung, thống nhất do nhà nước phát hành trước năm 2003 đều ghi sẵn phom có chữ “ȼi>hộ gia đình. Điều này chúng tôi cũng không đồng ý.

Luật đất đai 1993 quy định:

“Điều 1: Đất đai thɵộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.

Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. NhàȠnước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất. Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trong Luật này gọi chung là người sử dụng đất. Nhà nước choȠtổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất.

Theo quy định trên thì vào thời điểm trước năm 2003, Nhà nước giao đất cho tổ chức,Ƞcá nhân và hộ gia đình. Các quy định về luật đất đai không chỉ có một chủ thể đứng tên trên giấy CNQSDĐ là hộ gia đình mà còn có tổ chức, cá nhân cũng được đứng tên trong GCNQSDĐ. Do đó, không thể nói chỉ có một mẫu giấy CNQSDĐ như Chi cục THADS thị xã Sông Công. Việc trong các giấy tờ nhà đất của hộ ông Thiệp có chữ “hộ gia đình” là thể hiện chính sách, định hướng của nhà nước thời kì đó cấp cho hộ gia đình ông Thiệp, tạo sự đoàn kết giữa các cá nhân, cùng nhau lao động, tạo ra của cải cho tập thể. Đồng thời, đây cũng là thể hiện ý chí của cả hộ gia đình ông Thiệp muốn xin cấp quyền sử dụng đất cho tất cả các thành viên gia đình ông.

Hơn nữa, xét về mặt đóng góp, cùng nhau tạo lập tài sản chungȼspan lang="NL" style="font-size:12.0pt;line-height:115%;mso-fareast-font-family: Calibri;mso-ansi-language:NL"> cho hộ gia đình, theo Giấy CNĐKKD hộ kinh doanh cá thể số 030610 đăng kí lần đầu ngày 24/7/2006 do Phòng tài chính - kế hoạch, Ủy ban nhân dân thị xã Sông Công cấp thì chị Nguyễn Thị Oanh là con gái ông Thiệp có đứngȠtên đại diện hộ gia đình mở một cửa hàng nội thất, một xưởng gia công đồ gỗ tạo công ăn việc làm, thu nhập chính cho các thành viên trong hộ gia đìnhȬ đóng góp tiền của, công sức quản lý để xây dựng, sửa chữa các tài sản trên 2 thửa đất 269, 268.

Do đó, Cơ quan THADS không thể nói ɴoàn bộ khối tài sản trên chỉ là tài sản của vợ chồng ông Thiệp. Việc cố ý xác định sai sở hữu chung đối với khối tài sản này nhằm mục ȑích hoàn thiện việc kê biên, bán đấu giá để thi hành xong bản án, đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu khác. Những tổn thất về vật chất và tinh thần của những người này ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm?

<ɩ>Dân trí sẽ tiếp tục thông tin sự việc.

Anh Thế